Kiểm soát chất lượng xét nghiệm và ứng dụng của thống kê y học
Phân tích định lượng trong các xét nghiệm lâm sàng đòi hỏi phải xác định chính xác nồng độ của một thành phần nhất định có trong mẫu sinh học. Vì các xét nghiệm lâm sàng được sử dụng trong lĩnh vực y tế nên tốc độ xét nghiệm là rất cần thiết, mặt khác, kết quả xét nghiệm đáng tin cậy cũng cần thiết vì dựa trên kết quả xét nghiệm có thể định hướng điều trị hoặc xác định chẩn đoán. Kiểm soát chất lượng trong lĩnh vực xét nghiệm lâm sàng là một phương pháp quản lý được áp dụng để duy trì chất lượng xét nghiệm ổn định bất chấp những mâu thuẫn này. Kết quả xét nghiệm có độ tin cậy cao là một phần của việc cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế đáng tin cậy. Các mẫu sinh học được sử dụng trong các xét nghiệm lâm sàng hàng ngày là chất dịch cơ thể như máu và nước tiểu, và nồng độ của các thành phần có trong đó không được xác định cho đến khi có kết quả phân tích. Hoàn toàn không thể biết ngay tại chỗ kết quả định lượng nồng độ chưa biết này sẽ chính xác đến mức nào hoặc sai số sẽ lớn ra sao. Mục tiêu của xét nghiệm lâm sàng là thu được kết quả trong phạm vi sai số có thể chấp nhận được trong phân tích một lần. Độ chính xác trong xét nghiệm đề cập đến mức độ biến đổi khi cùng một mẫu được đo nhiều lần bằng cùng thiết bị đo và cùng thuốc thử. Điều này liên quan đến trách nhiệm kiểm soát chất lượng của kỹ thuật viên xét nghiệm phụ trách đo lường. Nội kiểm tra chất lượng (Internal Quality Control – IQC) gọi tắt là nội kiểm, là công cụ kiểm tra chất lượng hàng ngày trong nội bộ một phòng xét nghiệm, được thực hiện bởi nhân viên phòng xét nghiệm nhằm đánh giá liên tục các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng xét nghiệm. Khi kết quả nội kiểm nằm ngoài giới hạn kiểm soát, phòng xét nghiệm phải tìm ra nguyên nhân có thể gây sai số như: tình trạng thiết bị, hóa chất thuốc thử, chất lượng mẫu nội kiểm, thao thác thực hiện của nhân viên,… và khắc phục sự cố trước khi thực hiện xét nghiệm trên mẫu bệnh phẩm. Các phương pháp kiểm soát chất lượng được sử dụng ngày nay trong lĩnh vực xét nghiệm lâm sàng đều dựa trên lý thuyết xác suất làm lý thuyết cơ bản. W.A. Shewhart, người sáng lập ra phương pháp biểu đồ kiểm soát đã nói rằng: “Công việc của tôi trong hơn 35 năm là nghiên cứu về kiểm soát chất lượng. Điều tôi nhận ra qua công việc này là mọi giá trị đo được chỉ mang tính xác suất. Không có điều gì chắc chắn cả.” Tại Nhật Bản, phương pháp biểu đồ kiểm soát chất lượng được sử dụng phổ biến nhất trong xét nghiệm y học, đó là biểu đồ kiểm soát Xbar-R (hoặc biểu đồ kiểm soát Xbar-Rs-R). “Xbar” biểu thị giá trị trung bình của các mẫu QC được đo vào ngày hôm đó và giá trị này thể hiện “độ chính xác”. “R” biểu thị sự khác biệt giữa giá trị tối đa và tối thiểu của các mẫu QC được đo vào ngày hôm đó và thể hiện “độ chính xác của ngày hôm đó”. “Rs” biểu thị sự khác biệt giữa giá trị trung bình trong ngày và giá trị trung bình của ngày hôm trước và biểu thị “độ chính xác hàng ngày”. Phương pháp này được sử dụng làm phương pháp kiểm soát độ chính xác mang tính thống kê, điển hình cho các phương pháp định lượng. Tài liệu tham khảo: 1.Shewhart, W. A. (1939) Statistical Methods from the Viewpoint of Quality Control. Graduate School, Department of Agriculture, Washington DC, 75. 2. Cách nghĩ về độ chính xác. Thông tin hỗ trợ phòng xét nghiệm. https://www.aandt.co.jp/jpn/medical/qc/ TS Trần Thị Thanh Huyền Giảng viên khoa Kỹ thuật xét nghiệm y học Ngành Kỹ thuật xét nghiệm Y học